http://khoahocnet.com/2014/08/30/tue-uyen-chuyen-ngu-chu-nghia-quoc-gia-cuc-doan/#more-13786
30.08.2014

“Tôi vừa tự hỏi, chính ngài nắm giữ gì về chủ nghĩa quốc gia, lợi ích
của nó chống lại những bất lợi hay khả năng tàn phá của chủ nghĩa quốc
gia?”
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, “Tôi không nghĩ rằng chủ nghĩa quốc gia trong
tự nó là tàn phá. Là một thành viên của một quốc gia nào đấy có thể là
một bộ phận cảm giác nhận biết của một người. Do vậy, chủ nghĩa quốc
gia có thể hữu ích, cho chúng ta một cảm nhận thuộc về, và chúng ta có
thể có một cảm giác tự hào trong đặc tính quốc gia của chúng ta. Điều
này là tốt. Tôi nghĩ chủ nghĩa quốc gia như một loại khí cụ hay như
khoa học – nếu chúng ta sử dụng khoa học trong một cách sai lạc, sau đó
nó có thể đem thảm họa. Nếu chúng ta sử dụng nó một cách thích đáng,
nó sẽ mang đến lợi ích. Thế nên, nó tùy thuộc vào việc chúng ta sử dụng
nó trong phương pháp đúng đắn hay không.
“Bây giờ khi chúng ta nói về chủ nghĩa quốc gia, chúng ta đang nói về
những sự khác nhau căn cứ trên đặc tính quốc gia, một phần then chốt mà
đấy là những khác biệt trong di sản văn hóa, và quá khứ lịch sử. Mỗi
quốc gia có đặc trưng văn hóa hay nhóm văn hóa, một di sản văn hóa. Dĩ
nhiên, cũng có những biên giới địa lý giữa các quốc gia. Đấy là một
phần của nó. Nhưng tôi nghĩ văn hóa là vấn đề chính. Và, dĩ nhiên, mỗi
cộng đồng phải có quyền để bảo tồn nền văn hóa của chính họ, kể cả ngôn
ngữ, phong tục, và áo quần,v.v…
Tôi hỏi, “Ngài đề cập những lợi ích của chủ nghĩa quốc gia và tầm
quan trọng của việc duy trì một nền văn hóa hay đặc tính dân tộc, nhưng
ngài cũng đồng ý rằng có thể có những bất lợi của chủ nghĩa quốc gia,
những khía cạnh phá hoại chứ?”
“Ở đây, tôi muốn phân biệt giữa một chủ nghĩa quốc gia lành mạnh và
chủ nghĩa quốc gia cực đoan,” Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp lại. “Khi chủ
nghĩa quốc gia trở nên cực đoan, nó trở thành một ý tưởng nguy hiểm, quá
mạnh có thể khích động dân chúng tiến hành những hành động khiêu
khích. Điều này có thể xảy ra như thế nào, chúng ta đã thấy một cách
rất rõ ràng trong câu chuyện thảm kịch ở bán đảo Balkan vào cuối thế kỷ
hai mươi, với thuật ngữ ‘làm sạch dân tộc’ và ‘Balkan hóa’ xâm nhập vào
ngữ vựng hàng ngày của chúng ta. Những gì chúng ta chứng kiến trong
thảm kịch này là những đặc tính cực đoan quốc gia đã đưa đến một chu kỳ
tội ác của bạo động giữa người Serbia, Croatia, và Bosnia. Ở đây là một
thí dụ về những tác động đặc tính quốc của con người đã dày xéo những
khía cạnh đặc tính quốc gia của dân tộc khác mà nếu khác đi đã có thể
cung ứng một căn bản cho việc đi đến với nhau.”
“Do thế, như một xã hội, ngài nghĩ chúng ta có thể học hỏi điều gì từ kinh nghiệm của thảm họa đó ở Đông Âu?” tôi hỏi.
“Rõ ràng một bài học quan trọng mà chúng ta cần học là những đặc tính
quốc gia dân tộc rất quan trọng đối với họ và phải nên tôn trọng.
Trong chi tiết, điều này nói với chúng ta là khi những đặc tính quốc gia
dân tộc cùng tồn tại trong một nhóm rộng lớn, cho dù trong một liên
hiệp quốc gia như Liên Hiệp Âu châu, hay một quốc gia riêng lẻ, chúng ta
cần bảo đảm rằng những tính chất quốc gia dân tộc được quan tâm tôn
trọng và làm cho hòa hiệp chân giá trị. Dĩ nhiên, nếu chúng ta có một
sự đa dạng văn hóa khác biệt trong một quốc gia, nhằm để cho tất cả phát
triển lớn mạnh, tôi nghĩ tự do là rất quan trọng và một thể chế công
bằng hữu hảo, với những nguyên tắc của luật lệ.”
Ngay lúc Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về những vấn đề này – tự do, nguyên
tắc luật lệ, sự tôn trọng tất cả những nền văn hóa, tất cả mọi quốc gia –
truyền thống văn hóa Tây Tạng, và vị trí lịch sử Tây Tạng như một quốc
gia, đang ở trong những gọng kìm của một cuộc đấu tranh sinh tử mà có
thể quyết định sự sống còn của một truyền thống và di sản cổ xưa. Đối
với ngài, đây là một vấn đề sống động, không chỉ là một triết lý trừu
tượng – những thuật ngữ như “tự do”, “tôn trọng những nền văn hóa con
người”, và “nguyên tắc luật lệ” không chỉ là những khẩu hiệu đối với
ngài, hay một mẫu tin tức buổi tối. Bị kích thích bởi cảm xúc mạnh mẽ
nội tại và đánh dấu với một cái nhìn kiên quyết trong đôi mắt ngài,
những ngôn từ của Đức Đạt Lai Lạt Ma chuyên chở một cảm giác chân thành
cấp bách. Có ý nghĩa rằng khổ đau của con người thật sự bi đe dọa, và
rằng sự cống hiến của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với những nguyên tắc và
những biên giới này trong sự quan tâm của ngài không chỉ dành cho nền
văn hóa Tây Tạng mà thôi nhưng được mở rộng đến tất cả những nền văn hóa
trên thế giới. Tôi không thể cầm lòng được với sự xúc động.
Dù sao đi nữa, tôi nghĩ rằng thảm kịch ở Balkan có thể dạy chúng ta
một bài học quan trọng về những gì có thể xảy ra khi loại tôn trọng căn
bản ấy vắng bóng …” Ngài dừng lại, rồi thì thêm một cách nhanh chóng,
“Tôi trọng truyền thống người khác là rất quan trọng trong thế giới ngày
nay.”
Suy nghĩ khoảng một giây về bình luận mà tôi đã nghe Đức Đạt Lai Lạt
Ma nói trước đây, ý tưởng rằng hòa bình thật sự không chỉ đơn thuần là
sự vắng bóng chiến tranh, đối với tôi là sự vắng bóng đơn thuần của
thành kiến không giống như sự tôn trọng thật sự.
Tôi nhận xét, “Cho đến lúc này, chúng ta đã đang nói về sự vượt
thắng thành kiến, nhưng bây giờ dường như chúng ta đang nói nó một bước
xa hơn hay trở nên chủ động hơn, nói về việc trau dồi một ý thức tôn
trọng đối với những nhóm khác. Nhưng câu hỏi hợp lý logic là, ngài có
bất cứ suy tư nào về việc làm thế nào gia tăng hay trau dồi một ý thức
tôn trọng rộng lớn hơn đối với những nền văn hóa hay dân tộc khác hay
không?”
“Vâng, tôi nghĩ rằng chúng ta đã thảo luận về vấn đề một số cá nhân
có thể có trình độ học vấn hơn hay giàu có hơn, v.v…, và một số có thể
yếu kém hơn, nhưng mặc cho những loại khác biệt này, họ vẫn là những con
người, và đáng trọng với phẩm giá con người và tôn trọng trên trình độ
căn bản ấy. Cùng nguyên tắc áp dụng trên trình độ văn hóa và dân tộc –
có thể có những người khác dị biệt, lối sống của họ hay lối ăn mặc của
họ mà chúng ta có thể không hiểu được, nhưng chúng ta vẫn có thể duy trì
sự tôn trọng phù hợp với chân giá trị con người họ căn cứ trên lòng
nhân đạo thông thường của chúng ta.
“Nhưng ở đây,” ngài tiếp, “có một vấn đề khác. Điều gì đấy rất quan
trọng trên nhiều trình độ: học hỏi để biết thưởng thức sự đa dạng, thật
sự phản chiếu trên giá trị của nó, khảo sát những niềm tin của nó.
Càng có thể đánh giá đúng sự đa dạng, chúng ta sẽ càng dễ dàng tôn trọng
hơn những ai có thể là khác biệt. Thí dụ, từ quan điểm nhân loại là
một thể thống nhất, tôi nghĩ sự đa dạng văn hóa, đa dạng những nhóm
chủng tộc có thể làm giảu cho nhân loại. Nên vấn đề thật sự là nhằm để cho tập thể nhân loại phát triển lớn mạnh, những cá nhân thành viên của tập thể ấy phải thịnh vượng.
Tốt lành như một ngôi vườn. Nhằm để cho một ngôi vườn xinh đẹp và kỳ
diệu, ở đấy cần có sự đa dạng của bông hoa trong ngôi vườn, cây cỏ, và
sự phối hợp của nhiều kích cở, hình dạng, và màu sắc khác nhau bổ sung
cho ngôi vườn, và mỗi thứ cần phát triển trong môi trường riêng của
chúng. Trái lại, nếu chúng ta chỉ có một loại hoa trong vườn ấy, chì
trong một sưu tập, điều ấy sẽ đơn điệu nhàm chán. Chính sự đa dạng đã
cho ngôi vườn sự xinh đẹp của nó.”
Thời gian cho buổi gặp gở của chúng tôi đã hết. Nhưng bị thu hút với
những ngôn từ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã không chú ý sự bối rối bất
thường trong hành động của các cộng sự và thị giả của ngài đến và đi ở
hàng hiên bên ngoài trong việc hướng dẫn một người khách ra và một
người khác vào. Nhưng bây giờ lãng vãng chung quanh tấm bình phong, dấu
hiệu được báo bởi thư ký của Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi nhanh chóng
chuẩn bị để rời khỏi phòng tiếp kiến.
Khi tôi bước ra hành lang, được trang trí bởi một sự sắp xếp dày đặc
những bụi cây màu tía treo trên rào lưới, tôi nhìn người khách kế tiếp
của Đức Đạt Lai Lạt Ma được hướng dẫn vào trong phòng và gặp ngài. Đấy
là một nhóm nhỏ những người nam nữ, và tôi chú ý rằng những thành viên
của nhóm đại diện cho vài quốc tịch khác nhau và tất cả dường như được
thống nhất trong sự sôi nổi của họ để diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma –
một sự kết thúc thích hợp cho buổi thảo luận của chúng tôi về sự hòa
hiệp giữa tất cả các dân tộc. Khi tôi bước xuống lối đi hướng tới cổng
chính khu phức hợp nơi cư ngụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi thích thú với
sự tươt tốt xum xuê của cây cỏ trên mặt đất – những hàng trúc và bụi rậm
dày đặc, cây sồi, cây linh sam, cây đổ quyên, những bông hoa trong chậu
đủ màu sắc rộ nở – tím, vàng, đỏ, cam,… Khi tôi chậm rãi bước xuống
đồi, sung sướng với sự đa dạng của một ngôi vườn trong khi vẫn nghĩ về
ẩn dụ ngôi vườn của Đức Đạt Lai Lạt Ma với cái hay cái đẹp trong sự đa
dạng của con người, tôi đang say sưa với sự an bình, cảm giác hy vọng
như thể có lẽ một ngày nào đấy viễn tượng của Đức Đạt Lai Lạt Ma có thể
đạt đến để xuyên qua ngôi vườn trong hiện thực.

Với khổ đau trong một mức độ rộng lớn và không thể tưởng tượng như
thế, đôi khi thật dễ dàng để xem những chiến tranh nhận thấy như vậy là
“những sự kiện thế giới” và đánh mất ý thức tác động của chủ nghĩa quốc
gia cực đoan trong đời sống thường nhật của con người. Nhưng có lẽ câu
chuyện của ba đời sống sẽ là một thí dụ năng động cho thảm kịch của suy
nghĩ Chúng Ta và Họ.
Trong thảo luận trước đây của chúng tôi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về
mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm – một người có thể có một ý thức mạnh
mẽ về đặc tính cá nhân, của sự độc lập, của sự tự tin và sự mạnh mẽ của
cá nhân như thế nào và cùng lúc ấy có một ý thức sâu sắc về việc thuộc
vào một nhóm, “Không phải là Tôi hay Chúng Ta, nhưng là Tôi và Chúng
Ta.” Ở đây, ngài mở rộng cùng nguyên tắc ấy đến những nhóm: sự tin
tưởng khả năng của nhiều nhóm sống trong một xứ sở, mỗi nhóm ca ngợi đặc
thù của họ, vinh danh truyền thống của họ trong khi cùng lúc ấy trau
dồi một ý thức của việc thuộc vào một đặc tính quốc gia.
Một kiểu mẫu như thế, sự cân bằng lý tưởng của đặc tính cá nhân và
tập thể, đã được thấy một lần trong một nhóm thiếu niên mười sáu và mười
bảy tuổi, Bosnia, Croatia, và Serbia, những thiếu niên đã đến với nhau
trong năm 1984 để thi đấu cho đội bóng rổ thiếu niên quốc gia của Nam
Tư, một đội bóng đã trở thành huyền thoại. Trong bốn năm, đội này là vô
địch, một đội bóng ước mơ của của những đấu thủ trẻ, những người chưa
bao giờ thua trận trong những cuộc thi đấu quốc gia trên sân, và những
người trưởng thành với nhau ngoài sân, tiến tới vững vàng trong tình bạn
sâu sắc khi chúng du hành với nhau, sống trong phòng với nhau, rèn
luyện cần mẫn, và chia sẻ đời sống với nhau. Ý thức tình bạn thân thiết
cá nhân và sự tự tin thi đấu của chúng là không thể lay chuyển trong
những năm tháng ấy, đến mức độ mà đêm trước của trận thi đấu quan trọng
nhất của chúng, Vô Địch Thế Giới 1987 cho Nam Thiếu Niên, chúng đã cùng
nhau lẻn ra khỏi khách sạn của chúng để nhảy nhót, nhào lộn trên những
tấm bạt lò xo cả đêm. Và chúng vẫn chiến thắng nổi bật, đánh bại đội
Hoa Kỳ tại trận thi đấu vào ngày hôm sau, 86-87.
Sau khi chiến thắng trận thi đấu vô địch thế giới thiếu niên, nhiều ngôi sao trẻ tương lai – NBA[1]
này tiến tới thi đấu cho đội trưởng thành quốc gia của Nam Tư. Tình
bạn thân thiết đã duy trì một cách kiên cố giữa những đấu thủ Serbia như
Vlade Divac hay Aleksander Djordjevic và đấu thủ Croatia như Dino Radja
hay Toni Kukoc, những người tiếp tục thi đấu với nhau qua chiến thắng
giải Vô Địch Châu Âu 1991ở thủ đô Roma, Ý Đại Lợi.
Dấu hiệu đầu tiên cho sự chấm dứt Đội Ước Mơ trẻ đã đến vào buổi trưa
cuối cùng của loạt thi đấu vô địch, chỉ ngày trước khi Slovania tuyên
bố độc lập khỏi liên bang Nam Tư. Bộ trưởng Thể thao của quốc gia mới
đã gọi một người phòng thủ trẻ của đội nói với cậu ta rằng nếu cậu thi
đấu đêm ấy, cậu sẽ bị xem như người phản bội quốc gia của cậu.
Khi vùng Balkan nhanh chóng vở ra thành từng mãng và trở thành nóng
bỏng trong xung đột, đột nhiên những đặc tính mới nổi lên. Không còn là
những người Nam Tư nữa, những vận động viên bây giờ có những đội mới và
nhãn hiệu mới, người Croatia, người Serbia, người Bosnia. Quá nhiều,
những nhãn hiệu này dường như che khuất tất cả những phương diện khác về
đặc tính của họ. Thành viên của đội Hồi Giáo Bosnia, Teo Slibegovic đã
nói, “Bạn biết không, tôi chưa từng biết dân tộc của bất cứ người nào
là gì khi chúng tôi thi đấu với nhau. Và tôi cam đoan với bạn rằng họ
chưa từng biết tôi thuộc dân tộc nào. Ô, bây giờ chúng tôi biết rồi.”
Tình bạn, đã từng một lần nghĩ rằng không gì phá vở được, bây giờ dường
như tan ra mây khói dưới sức ép.
Khó khăn đặc biệt đối với hai vận động viên ngôi sao, Serbia Divac và
Croatia Kukoc, những người đã trở thành đôi bạn rất thân thiết trải qua
bao năm tháng. Divac đã cố gắng giữ sự liên lạc với người đồng đội năm
xưa, và mặc dù họ không hoàn toàn đổ vở hẳn liên lạc, anh vẫn rắc rối
sâu xa bởi bản chất gượng ép của tình bạn; anh ta ngay cả bật khóc trong
cuộc phỏng vấn năm 1996 khi anh nói về những diễn biến của thảm kịch.
Kukoc trong khi ấy kể lại rằng, “Mùa hè vừa qua, tôi đã đi thăm viếng
các bệnh viện để thấy nổi đau thương. Một khi người ta thấy những thanh
niên mười chín, hai mươi không tay, không chân, người ta không nghĩ đến
bóng rổ nữa.”
May mắn thay, khi năm tháng trôi qua, vết thương đã lành lại trong
hầu hết những đồng đội cũ, và hôm nay hai người bạn này, một lần nữa,
hoạt động với nhau ở bán đảo Balkan trong những nổ lực nhân bản và dạy
sự bao dung đến những trẻ em qua bóng rổ.
Khi chúng ta thấy một đội như thế trong hoạt động, nó vượt khỏi thể
thao; nó thể trở thành một ẩn dụ cho đỉnh cao của khả năng con người
(như triều đại Celtic Boston những năm 1960, được hướng dẫn bởi ngôi sao
lớn của bóng rổ kể cả Bill Russell, John Havlicek, và Sam Jones)! Đấy
là một sự quân bình toàn hảo, nơi chúng ta có thể thấy sự phát triển tột
đỉnh của nổ lực con người, chủ nghĩa cá nhân ở chỗ tuyệt diệu nhất của
nó, và cùng lúc ấy là đại diện tuyệt đỉnh của nổ lực tập thể. Trong
những đội thật sự tầm vóc này, chúng ta sẽ thấy năm cá nhân riêng rẻ,
mỗi người với đặc điểm thông minh riêng của họ, mỗi phác họa rõ ràng,
với cá tính riêng của họ; một người có thể là kẻ tung pháo chắc chắn,
người khác dữ dội trong việc phòng thủ và phá chặn đối phương, người thứ
ba là một nhân vật lèo lái làm bàn cần mẫn. Không một người nào có thể
làm tất cả mọi việc, nhưng mỗi người đã phát triển sự thông minh riêng
của mình, trong khi biết thế mạnh của mỗi người kia, và khi họ đến với
nhau, họ ở trong sự hòa hiệp hoàn toàn với một loại sức mạnh tổng hợp
giống như họ thật sự là một cơ thể, với tổng thể lớn hơn tổng số các bộ
phận.
Tôi không thể nghĩ về một sự diễn tả thích hợp hơn những ý tưởng của
Đức Đạt Lai Lạt Ma về khả năng của việc có một đặc tính cá nhân mạnh mẽ
và một đặc tính tập thể mạnh mẽ cùng một lúc, cũng như một ẩn dụ thích
hợp về những lợi ích của việc có sự đa dạng cá thể trong một tổng thể
rộng lớn – cho dù đấy là những đấu thủ bóng rổ trong một đội hay những
nhóm chủng tộc trong một liên bang rộng lớn hơn.
Đức Thánh Thiện đề nghị một sự phản chiếu sâu sắc trong những lợi ích
của đa dạng như một chiến thuật thực tiển đầy năng lực để giúp cho việc
trau dồi sự tôn trọng cho những ai mà họ có thể là khác biệt. Trong
khi một đội như vậy cung ứng cả một sự minh họa và một ẩn dụ rộng rãi
hơn cho những lợi ích của đa dạng, cũng có một đáp ứng tuyệt vời của
nghiên cứu khoa học cung cấp những chứng cứ cụ thể hơn cho lợi ích của
đa dạng mà nó đáng giá để quán chiếu.
Những Lợi Ích của Sự Đa Dạng
Trong quyển sách của ông, Tuệ Trí Đám Đông[2], tác giả James Surowiecki[3] mở màn với câu chuyện của một nhà khoa học tám mươi lăm tuổi, Francis Galton[4],
một chuyên gia trong khoa học di truyền, người đã quyết định đi đến một
hội chợ và một cuộc triển lãm thú nuôi một ngày nọ vào năm 1906. Ông
có một sự quan tâm lâu dài với việc gây giống và hiếu kỳ để thấy những
kết quả của việc gây giống thú vật ngày hôm ấy. Tác giả thuật lại chi
tiết việc Galton đi qua một cuộc thi phỏng đoán sức nặng của con vật
trong hội chợ, mà trong ấy người ta đánh cuộc trên trọng lượng của một
con bò béo mập đang diễn ra, “sau khi nó được ‘giết và xả
thịt’.” Với những phần thưởng cho những ai đoán đúng nhất, khoảng
chừng tám trăm người đang dự cuộc. Trong khi có một số những đồ tể và
nhà chăn nuôi giỏi giang trong số tám trăm người thi đoán ấy, toàn bộ
những người ấy khác nhau rất nhiều, với khá ít người không có một kiến
thức gì về súc vật. Galton phỏng đoán rằng mặc dù có một số nhà chuyên
môn trong đám đông, hầu hết mọi người sẽ không có ý kiến gì về trọng
lượng sau cùng sẽ là bao nhiêu, và dự đoán trung bình chắc chắn sẽ là
cách kết thúc cuộc thi. Sau khi cuộc thi qua rồi, Galton mượn tất cả
những phiếu dự thi từ những người tham dự và phân tích chúng. Sau khi
trung bình tính tất cả những sự phỏng đoán để đi đến một kết luận duy
nhất, đại biểu cho “tuệ trí tập thể” của đám đông trong ngày ấy, Galton
đã sửng sốt với những kết quả: Sự phán đoán của đám đông là toàn hảo một
cách cơ bản!” Sau khi bị giết và xẻ thịt, con bò nặng 1.198 cân Anh.
Đám đông đoán là 1.197.
Surowiecki tiếp tục trong quyển sách của ông để cho một thí dụ về
những câu chuyện tương tự, và thêm những lý thuyết và nghiên cứu khoa
học, minh chứng chủ đề căn bản của quyển sách ấy: “Dưới những hoàn cảnh
đúng đắn, ” ông viết, “những tập thể là thông minh một cách nổi bật, và
thường sáng suốt hơn người thông minh nhất trong đám ấy.” Ông lập luận
trái ngược với trực giác hay cảm nhận thông thường rằng những nhóm
người khá hơn trong việc giải quyết những rắc rối và đưa ra những quyết
định tốt đẹp hơn so với ngay cả người chuyên môn hàng đầu trong nhóm.
Dĩ nhiên, tất cả chúng ta biết là con người ta có thể rồ dại vô cùng
như thế nào vào những lúc tụ họp trong đám đông, có thiên hướng về tính
ngu ngốc tuần tự từ việc săn lùng những phù thủy đến những hành vi ác
độc không thể tưởng được (thí dụ việc hành hình vì sự cuồng tín). Do
vậy, chìa khóa ở đây là việc xác định “những hoàn cảnh đúng đắn”
Surowiecki liên hệ đến những hoàn cảnh cho phép tuệ trí của tập thể ló
dạng. Những điều kiện được xác định bởi Surowiecki hổ trợ thêm cho biện
luận của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng sự đa dạng – cho dù là sự đa dạng của
những cá thể trong đám đông, sự đa dạng văn hóa trong một quốc gia, hay
sự đa dạng quốc gia trong hành tinh của chúng ta – đôi khi có thể cống
hiến những lợi ích lớn lao. Lần theo nhiều nghiên cứu khoa học, và sự
phong phú của những thí dụ thực tiển, Surowiecki kết luận rằng “những
điều kiện cần thiết cho sự thông tuệ của đám đông là: đa dạng, độc lập,
và một loại phân quyền đặc thù.”
Vì vậy chúng ta đi đến một lợi ích khác của đa dạng: Sự đa dạng làm
nổi bật tuệ trí của một nhóm, cải thiện việc giải quyết vấn đề và khả
năng tạo ra quyết định của chúng ta. Với quá nhiều rắc rối trên thế
giới ngày nay, đây là một lợi ích không được bàn luận một cách qua loa.
Nếu một nhóm người đang tìm cách giải quyết một vấn đề hay đi đến một
sự đồng tâm nhất trí trong một quyết định quan trọng, một sự đa dạng của
những viễn tượng mới mẻ, một nguồn tin tức mới, và những kho tàng khác
nhau của kiến thức tất cả cống hiến đến tuệ giác và sức mạnh của một tập
thể. Trong một ý nghĩa, người ta có thể phác họa ra một nét tương tự
đến câu chuyện “Con Voi và những Người Mù”, nơi mà một nhóm người mù
được yêu cầu diễn tả con voi. Một người cảm nhận cái đuôi con voi giống
như một sợi dây, người khác cảm nhận cái chân và diễn tả nó như cây
cột, v.v… Hành động đơn độc, những người mù là đủ cả dấu hiệu, nhưng nếu
những người mù được tập họp trong một nhóm, mỗi người cống hiến đến bức
tranh, cuối cùng họ sẽ có thể đi đến một sự diễn tả thật tuyệt về con
voi.
Một cuộc nghiên cứu then chốt 2004 tại Đại học Stanford đã minh chứng
một cách trực tiếp lợi ích của sự đa dạng trong việc cải thiện khả năng
suy nghĩ của một nhóm. Những nhà nghiên cứu Anthony Antonio[5] và Kenji Hakuta[6]
phân chia một nhóm sinh viên da trắng thành những nhóm nhỏ được bố trí
để thảo luận một vài vấn đề xã hội tranh cải, chẳng hạn như án tử hình.
Những sinh viên không biết nhau, họ được họp thành nhóm vì thế tất cả
chia sẻ cùng những quan điểm, căn cứ trên một cuộc phỏng vấn thể
nghiệm. Cũng không biết đến những đối tượng là một trong những “sinh
viên” trong mỗi nhóm là một “người gài vào”, hợp tác với những nhà
nghiên cứu. Phân nửa người gài vào là da đen, phân nửa là da trắng.
Thêm nửa, một số người gài vào được hướng dẫn để đồng ý và một số được
yêu cầu không đồng ý với những người khác trong nhóm.
Trong việc phân tích một cách kỷ lưởng nội dung những đề tài thực tập
mười lăm phút trước và sau khi thảo luận, những nhà nghiên cứu thấy
chứng cứ kết luận rằng trong những nhóm này đã có những ảnh hưởng lợi
ích trên vấn đề suy nghĩ của những thành viên trong nhóm, đặc biệt cải
thiện một loại suy nghĩ được biết như “sự phức tạp để hợp thành một thể
thống nhất” (integrative complexity – IC). IC là thước đo của sự suy
nghĩ thông tuệ trình độ cao cấp, đại khái liên hệ khả năng để nhìn vào
vấn đề từ một sự đa dạng của nhận thức, và có thể hợp nhất những sự đa
dạng này trong việc trở thành một kết luận. IC có giá trị lớn trong
việc giải quyết vấn đề và làm nên quyết định Những lợi ích trong việc
nghiên cứu được thấy khi một nhóm bao gồm một thành viên của một chủng
tộc khác, cho dù sinh viên da đen đồng ý với đa số hay không. Trong
cùng cách ấy, lợi ích được thấy khi nhóm bao gồm một thành viên với một ý
kiến khác, cho dù ý kiến khác biệt này được bày tỏ bởi một “kẻ gài vào”
da trắng hay đen.
Vì rằng đây chỉ là một thí dụ trong nhiều lợi ích của tính đa dạng,
người ta có thể nói, “Ô, nếu đa dạng là quá tuyệt vời, và đám đông là
quá thông minh như thế, tại không có sự đa dạng hơn trong những ‘đám
đông’ trong khắp mọi trình độ của xã hội, với nhiều người lựa chọn để
làm việc và sống trong những môi trường đa dạng hơn một cách tự nhiên?”
Câu trả lời, như thông thường, là, ô, mọi thứ không đơn giản như vậy,
có nhiều biến thiên trong việc đối phó với thái độ con người. Vì vậy,
mặc dù những lợi ích của đa dạng, nhưng có một sự ngầm hiểu rằng – tập
thể cũng phải được động viên để hoạt động với nhau và không để những sự
dị biệt làm cho cải vả vặt vảnh hay xung đột làm ngăn ngừa việc hoạt
động với nhau phát sinh. Nhằm để hưởng thụ những lợi ích của đa dạng,
những ai từ các nhóm chủng tộc và dân tộc vốn khác biệt đầu tiên phải có
cơ hội để hình thành một sự tiếp xúc với nhau, và rồi thì phải bắt đầu
phá vở những thái độ đã tạo nên các rào cản trong những nhóm khác nhau.
Nhằm để giải quyết vấn đề này, thật quan trọng để thấu hiểu rằng
giống như có những lợi ích đối với những tập thể đa dạng, cũng có những
lợi ích đối với những nhóm thuần nhất, chẳng hạn như hiệu quả sản xuất
lớn hơn phát sinh từ một tập thể đoàn kết và thống nhất. Nghiên cứu gần
đây xác nhận một cách rõ ràng rằng con người tin tưởng nhau hơn, có một
ý thức cộng đồng cao hơn, tỉ lệ tội ác thấp, và giảm thiểu những mức độ
chán nản và sự bừa bải băn khoăn khi sống trong những cộng đồng thuần
nhất hơn, hay nơi mà tập thể của người ấy là đa số. Do vậy, thế nào ấy
chúng ta phải điều hòa sự kiện rằng người ta cảm thấy hạnh phúc hơn khi
sống giữa những người cùng chủng tộc và sắc tộc với một nhu cầu tuyệt
đối cho một ý nghĩa của hòa hiệp và hợp tác giữa những nhóm khác nhau,
nhu cầu để cảm thấy thoải mái với những ai thuộc chủng tộc và dân tộc
khác trong những xã hội đa văn hóa gia tăng. Vấn đề này nhạy cảm hơn
trong xã hội phương Tây ngày nay bởi xu hướng tranh luận giữa những ai
cảm thấy chúng ta nên ăn mừng những sự khác biệt chủng tộc và sắc tộc
của chúng ta, thấy không có gì sai với “việc giữ gìn những gì riêng biệt
của chúng ta”, và những ai biện luận chấp thuận hội nhập những xã hội
đa văn hóa, ngay cả hoàn toàn đồng hóa vào trong một đại gia đình hạnh
phúc của nhân loại.
Phần trước Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về nhu cầu cho một tâm linh cộng
đồng lớn hơn, cho việc trau dồi một ý thức liên hệ, của nối kết xã hội
gần gũi hơn, nhưng ở đây chúng ta có thể chia thành hai loại nối kết xã
hội: Một loại nối kết con người lại với nhau trong một nhóm, trên căn
bản của những nét chung như cùng chủng tộc, sắc tộc, hay cùng tôn giáo.
Thứ hai là tạo nên sự liên kết chặc chẽ giữa những thành viên của những
nhóm khác nhau, điều thường được gọi là sự bắt cầu những liên kết xã
hội. Hầu hết những nhà khoa học xã hội hiện nay đồng ý rằng những liên
kết xã hội bắt cầu là cần thiết một cách hệ trọng trong xã hội đương đại
phương Tây, loại thiếu vắng một cách bi thảm ở bán đảo Balkan giữa
những người Serbia, Croatia, và Bosnia. Thử thách dĩ nhiên là làm thế
nào để xây dựng những liên kết xã hội bắt cầu – làm thế nào để tạo nên
một loại ý thức nối kết đến một cộng đồng rộng rãi hơn trong khi vẫn
duy trì những đặc trưng văn hóa hay sắc tộc.
Những nghiên cứu cho thấy rằng con người cảm thấy hạnh phúc hơn nếu họ sống với những người giống với chính họ. Những gì có nghĩa là “giống với chính họ”?
Điều này dường như là điểm then chốt của vấn đề – một vấn đề cũng được
xác định một cách rõ ràng bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma khi nói về những khía
cạnh tàn phá của suy nghĩ Chúng Ta và Họ, kết luận, “Chúng ta cần thúc đẩy một cung cách toàn bộ hơn của việc liên hệ với người khác. Điều ấy là chắc chắn.”
Chúng ta cần tìm ra một phương cách để nhìn vào những người khác từ
những nhóm khác biệt chủng tộc, dân tộc, hay quốc gia và nhận thức tất
cả họ là những bộ phận của cái “chúng ta” rộng lớn hơn, toàn bộ hơn.
Trong chương này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trình bày một số dự án hợp lý
để giúp chúng ta vượt thắng thành kiến, thiên vị, và thù hận có thể
biểu hiện như những chướng ngại để trau dồi ‘cung cách toàn bộ hơn’ này
của việc nhận thức người khác. Trong phần ba của quyển sách này, chúng
tôi sẽ trở lại phần thảo luận về việc liên hệ với người khác trong một
cung cách toàn bộ hơn như thế nào, cho thấy làm thế nào điều này có thể
đưa đến sự hạnh phúc cá nhân rộng lớn hơn cũng như giúp để vượt thắng
nhiều vấn nạn xã hội trong thế giới ngày nay. Tuy thế, trước khi chuyển
sự chú ý của chúng tôi đến những chủ đề ấy, những sự kiện trên thế giới
nhắc nhở chúng ta rằng vẫn còn những vấn đề quan trọng để thảo luận
trong nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc trong thế giới rắc rối của chúng ta.
Trích từ:
NGHỆ THUẬT HẠNH PHÚC TRONG THẾ GIỚI PHIỀN NÃO
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World
Nhà xuất bản: Hodder & Stoughton – 2009
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World
Nhà xuất bản: Hodder & Stoughton – 2009
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
[1] National Basketball Association : Hiệp Hội Bóng Rổ Quốc Gia
[2]
Tuệ Trí Đám Đông đưa ra một giả thuyết đơn giản đến mức có người cho là
kỳ quặc, đó là: Nếu để đưa ra một quyết định đúng đắn hay giải quyết
một vấn đề nào đó, thì đám đông luôn tỏ ra thông minh hơn một vài chuyên
gia riêng lẻ.
[3]
James Surowiecki sinh năm 1967, tốt nghiệp tiến sĩ Lịch sử Hoa Kỳ tại
Đại học Yale trước khi là phóng viên tài chính, viết cho Trang tài chính
của tờ The New Yorker. Tác phẩm của ông đã xuất hiện trên các tờ New
York Times, Wall Street Journal, Wired và Slate.
[4]
Francis Galton (1822-1911) là một nhà khoa học xuất chúng, người Anh,
thường được xem là “cha đẻ” của phương pháp khoa học hiện đại mà chúng
ta sử dụng ngày nay. Sở trường nghiên cứu của ông là di truyền học, và
ông rất nổi tiếng qua những nghiên cứu về những đặc tính và yếu tố liên
quan đến thông minh và mối liên hệ giữa thông minh và danh tiếng. Những
công trình này có ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ của nhiều người thuộc giai
cấp quí tộc ngày xưa và giới trung lưu ngày nay.
[5]
Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ giáo dục tại Đại học Los Angeles (UCLA)
1998, Anthony Antonio đã bắt đầu giảng dạy và tiến hành nghiên cứu tại
trường Giáo Dục Stanford.
[6] Kenji Hakuta tốt nghiệp tiến sĩ tâm lý học tại Đại học Harvard, 1975-1979
Điều gì cực đoan cũng đều không tốt cả.
ReplyDelete