01/02/2012
- Trí thức nửa mùa
Oleshuk Iu. F.
Phạm Nguyên Trường dịch
Một
bài viết thật hay, sâu sắc , đề cập đến những vấn đề thật giống ở Việt
Nam. Có lẽ cũng sẽ bắt buộc phải có những thay đổi. Ở nước ta, theo như
mô tả trong bài viết, hạng trí thức nửa mùa này đông lắm, nhan nhản trên
báo chí, trong các trường Đại học, ở tầm PGS, GS đều có. Họ khi nào
cũng huênh hoang, khệnh khạng, phát lời như sấm với những ngôn từ thật
kêu. Có đôi khi giống như con chim gỗ được vặn dây cót.
Giới
trí thức đang bị nhiều người chỉ trích. Họ bị coi là người chịu trách
nhiệm về những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 1990. Hơn nữa, có
thể nhận thấy rõ xu hướng là người ta không chỉ lên án giới trí thức về
chuyện đó, mà còn vì vai trò của họ trong lịch sử đất nước nói chung,
bắt đầu gần như từ nửa sau thế kỷ XIX, tức là từ khi những nhà cách mạng
“thông ngôn kí lục” bước vào con đường khủng bố. Những lời kết án mang
tính khái quát như thế không làm ai ngạc nhiên. Chúng ta, một đất nước
có truyền thống phản trí thức, một truyền thống đã mang đến không ít đau
khổ cho cả trí thức lẫn nước Nga.
Tác
giả không có ý định phán xét trách nhiệm của giới trí thức về những
việc mà người ta quy cho họ trong quá khứ (chủ nghĩa phiêu lưu chính
trị, thái độ cuồng tín cách mạng v.v...). Nhưng là một nhân chứng của
những sự kiện diễn ra trong giai đoạn cải cách - tức là những sự kiện
diễn ra trong hai mưoi năm gần đây - tôi có thể đánh bạo mà khẳng định
rằng: giới trí thức không tham gia vào việc đó.
Cái
dư luận xã hội đang đổ mọi tội lỗi lên giới trí thức, theo tôi là đã có
một sai lầm căn bản. Nó cho rằng dường nó như biết được giới trí thức
là gì và ai là những người trí thức vậy.
Nói chung, hiếm khi tách biệt và xác định được bản sắc của giới trí thức - không phải ngẫu nhiên mà trong những
câu chuyện về giới trí thức người ta luôn phải sử dụng những định thức
khác nhau nhằm bổ sung và mở rộng khái niệm này (“giới trí thức sáng
tạo”, “mang tính tích cực xã hội”, “cảm thấy có trách nhiệm đối với đất
nước”, “sống bằng những nhu cầu tinh thần”). Nhưng trong trường
hợp này vấn đề không phải là những người kết án giới trí thức đã sử dụng
một phạm trù mà họ không hiểu (xin hãy hỏi họ trí thức là gì - nhất
định họ sẽ bị lúng túng trong việc trả lời). Họ đã bỏ qua một sự kiện
quan trọng nhất: Ở nước Nga, trong thế kỷ XX đã hình thành một tầng lớp
xã hội, được coi là trí thức, nhưng trên thực tế lại không phải là như
thế. Chính
các đại diện của tầng lớp này, chứ không phải giới trí thức, đã đóng
vai trò chủ yếu trong những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 80
và những năm 90 của thế kỷ vừa qua. Đấy là tầng lớp trí thức nửa mùa. Dĩ nhiên là sau khi đã đưa ra định nghĩa, tác giả phải minh giải nó.
Theo tôi tầng lớp trí thức nửa mùa
được hình thành từ một kiểu người đặc biệt và tương đối phổ biến. Trước
hết đấy là người có học, có văn hóa, lại thường giữ chức vụ chứng tỏ
những phẩm chất đó của anh ta. Nhưng nếu tiếp xúc lâu ta sẽ thấy: trình
độ học vấn, kiến thức của anh ta không nhiều, nhu cầu văn hóa cũng thiếu
hụt. Thực chất, dù có mang một vẻ hào nhoáng trí thức bên ngoài thì đấy
cũng chỉ là một “kẻ thất phu” mà thôi.
Vâng,
như một người trí thức, dĩ nhiên là anh ta quan tâm đến công việc xã
hội. Tầm hiểu biết của anh ta dường như cũng vượt ra khỏi các nhu cầu và
tính toán cá nhân nữa. Thế gọi là tầm hiểu biết! Thế gọi là có quan
điểm về những chuyện đang xảy ra xung quanh! Thường là chỉ ở mức tán
nhảm của mấy gã chợ trời mà thôi. Không cao hơn cũng không sâu hơn một
tí nào.
Một đặc điểm nữa - cũng là đặc điểm phân biệt anh ta với người trí thức chân chính - hoàn toàn không biết tư duy độc lập về các đề tài xã hội. Không, tư tưởng thì có thể có trong đầu, nhiều nữa là đằng khác, nhưng tất cả đều không phải của mình, tất cả đều là học mót được. Thái
độ thuần phục giữ vai trò chủ đạo trong giới trí thức nửa mùa, đấy là
quan điểm thịnh hành chung cho cả giai tầng này. Họ theo nó một cách tự
tin vì những người này không thể tự nghĩ ra được quan điểm nào khác để
thay thế cho nó. Tạo ra thái độ thuần phục là một việc đơn giản. Giới trí thức nửa mùa có đặc điểm là bao giờ cũng phải có thần tượng, những người có uy tín, những nhân vật để mà tôn sùng. Trong
nước Nga xã hội chủ nghĩa thời gian qua, khi mà giới trí thức nửa mùa
hình thành và phát triển, thì thần tượng của họ thường là những người
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và văn học - những người tích cực về
mặt xã hội, có tinh thần phê phán - tranh luận về các vấn đề xã hội.
Giới trí thức nửa mùa lĩnh hội quan điểm về hiện thực xung quanh từ
những người như thế.
Một đặc điểm nữa của giới trí thức nửa mùa: thái độ hung hăng khi bàn về các vấn đề xã hội. Giới
trí thức nửa mùa cho rằng mình là giai tầng đứng trên “quần chúng” và
nói chung là đứng trên tất cả mọi thứ khác nữa. Giai tầng này có thói
kiêu ngạo tập thể đặc thù và rất mạnh.
Từ lâu họ đã tin tưởng rằng chỉ cần giao cho họ - giao cho những người
đại diện của họ - quyền lực là mọi tai hoạ của đất nước sẽ được giải
quyết ngay lập tức. Chứ còn gì nữa: họ chẳng phải là người truyền bá
kiến thức đấy ư? Chẳng phải là những người có học nhất và thông minh
nhất đang đứng trong đội ngũ của họ đấy ư?
Xin
ghi nhận một tính chất nữa của giới trí thức nửa mùa: không chịu “tu
thân”, đấy là nói theo cách ngày xưa. Không chịu đọc bất cứ một cái gì
nghiêm túc, không chịu suy nghĩ một cách rốt ráo về bất cứ đề tài nào.
Thường thì công việc tư duy độc lập được thay thế bằng việc nghe lỏm ý
kiến và đánh giá của các nhân vật có uy tín và tuân theo một cách vô
điều kiện. Có
lẽ, ít nhất là một phần, sự lười biếng và thụ động về trí tuệ như thế
là do giới trí thức nửa mùa thực sự tin rằng mình đã là trung tâm của
kiến thức rồi. Nếu không cần cố gắng mà vẫn là trung tâm thì cố gắng để
làm gì?
Cuối cùng, trí thức nửa mùa còn có đặc điểm nữa là tự ái về chính trị,
một đặc điểm đương nhiên một khi người ta đã đánh giá mình cao đến như
thế. Hóa ra là thế này: chúng tôi biết hết, chúng tôi có thể làm được
tất - thế mà chúng tôi bị gạt ra khỏi quyền lực, ở đó chỉ toàn các “quan
chức”, “toàn bọn quan liêu ngu dốt”, “tư duy hạn chế”. Đánh
giá thấp về người khác và đánh giá quá cao về chính mình đã tạo ra thái
độ tự ái về chính trị như một tâm trạng bền vững “nội tại” của giai
tầng này. Đau đớn và phẫn nộ là thái độ thường trực của giai tầng đó.
Như vậy là trí thức nửa mùa chỉ là một kẻ giả danh trí thức.
Hắn dùng bằng cấp, chức vụ và phô trương thái độ quan tâm đối với các
vấn đề xã hội để đóng giả. Hắn đóng giả cả cách giải trí, cả thói đam mê
mang tính phô trương về tất cả những gì gọi là “văn hóa” nữa. Đây hóa
ra là chỗ dễ phân biệt trí thức nửa mùa nhất.
Thí
dụ như trí thức nửa mùa lũ lượt đi nghe hòa nhạc trong nhạc viện. Đương
nhiên là họ đặc biệt thèm khát được có mặt tại những buổi biểu diễn
được mọi người chờ đợi - hiện diện tại những buổi biểu diễn của những
diễn viên ngoại quốc hay nhạc sĩ tài danh. Nhưng sẽ thật thú vị nếu quan
sát thái độ của đám trí thức nửa mùa này suốt buổi hòa nhạc đó. Họ cảm
thấy cực kỳ chán nản! Đâu đâu cũng chỉ thấy những bộ mặt vô cảm, những
ánh mắt đảo khắp khán phòng. Nhưng sau khi kết thúc thì đám đó lại nhiệt
liệt vỗ tay, tỏ vẻ ngưỡng mộ, tôn kính diễn viên (nhạc sĩ). Có thể thấy
bức tranh tương tự như thế trong một buổi triển lãm nghệ thuật có uy
tín nào đó. Xếp hàng thì chen nhau, trong phòng thì uể oải, còn khi kết
thúc thì lại tỏ ra ngưỡng mộ.
Xin
đưa ra một phác thảo nữa - về khát vọng (giả tạo) của giới trí thức nửa
mùa trong việc tìm hiểu hiện tình, nhu cầu và đặc điểm của đất nước.
Nói rằng đấy là việc quan trọng thì trí thức nửa mùa lúc nào cũng sẵn
sàng. Nhưng làm việc một cách nghiêm túc thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Thí dụ: cuối những năm 1980 có quyết định in toàn tập tác phẩm của V. Kliuchevski[1] và S. Solovjov[2],
hai nhà sử học lớn nhất của nước Nga trước cách mạng. Lạy Chúa tôi,
tầng lớp trí thức nửa mùa đã bị kích động đến mức nào! Họ đã tỏ ra hân
hoan, tuy có hơi sớm, đối với các tác giả, đặc biệt là đối với
Kliuchevski, đến mức nào. Vì họ đã nghe nói ở đâu đó: đây là một nhà tư
tưởng đặc biệt, một người hiểu rõ quá khứ của nước Nga. Thế là giới trí
thức nửa mùa tìm mọi cách đăng kí mua. Mua bán trao tay, còn bọn đầu cơ
thì hét giá đến 300 thậm chí 400 rub - một khoản tiền lớn thời đó. Mua
được - rồi sao? Trong hàng chục người đã đăng kí mua (tất cả đều là
những trí thức cả về học vấn lẫn địa vị, một số còn là những nhà hoạt
động văn hóa nữa) tôi chưa thấy một người nào đọc! Chưa một người nào!
Mua về, đặt lên chỗ dễ thấy nhất - cho mọi người nhìn - thế là hết. Họ
hết sức tự hào vì đã mua được những trước tác vĩ đại như thế. Lịch sử
thì họ đã và vẫn đọc, nhưng không phải là thứ “nặng” như thế, chỉ là
những cuốn sách phổ thông mà thôi.
Độc
giả có thể thắc mắc: đấy có phải là một giai tầng không? Có phải là một
lực lượng chính trị, lực lượng xã hội không? Có thể đấy chỉ đơn giản là
những người có học vấn trung bình mà ở đâu, đất nước nào, xã hội nào
chả có? Đúng thế, ở đâu cũng có. Nhưng ở nước ta từ nửa sau thế kỷ XX họ
đã tạo thành một lực lượng chính trị, lực lượng xã hội. Họ không còn là
những cá nhân trôi nổi trong xã hội nữa. Tại sao?
Thứ nhất, họ đông đảo đến mức đáng kinh ngạc. Lý
do, theo tôi, là sự vội vã trong việc đào tạo hàng loạt, cụ thể là việc
phát triển một cách ồ ạt, mang tính bề nổi các trường đại học - chuyên
tu, tại chức, v.v.; mà ngay chính quy hóa ra cũng “chưa đủ tầm”. Rất
nhiều người có bằng đại học, mà cùng với bằng cấp là quyền được tự coi
là trí thức. Nhưng trên thực tế đấy chỉ là “nửa vời”. Thứ hai, điều này cũng không kém phần quan trọng, như đã nói bên trên, giai tầng này có thói kiêu ngạo chính trị: “Nếu có quyền chúng tôi có thể làm được hết”.
Nguyên nhân của thái độ như thế không phải là điều bí mật. Một mặt, đấy
là thái độ bất bình với môi trường sống đang ngày càng gia tăng trong
toàn xã hội. Mặt khác, đấy là nhận thức cho rằng mình (do đông người và
những quan niệm hời hợt) là một lực lượng mà “không có việc gì là khó” cả. Chỉ
có những kẻ có suy nghĩ hời hợt mới có thái độ tự tin như thế vì họ
quan niệm tất cả mọi thứ trên đời đều đơn giản. Kết quả là đám đông trí
thức nửa mùa càng ngày càng trở thành giai tầng sẵn sàng tham gia hoạt
động chính trị. Mà lại dựa vào cương lĩnh về những cuộc cải tổ và cải
cách nhanh chóng nhất. Các giai tầng khác cũng tỏ ra bất mãn với
nhiều vấn đề, nhưng không có thái độ kiêu ngạo chính trị như thế. Họ
không hoạt động, họ chỉ bực bội và phàn nàn mà thôi. (Nếu ai còn nhớ thì
đấy là bức tranh điển hình hồi những năm 1970-1980). Trí thức nửa mùa
càng ngày càng khao khát lao vào trận chiến.
Khát
khao hành động thì đã có, nhưng tai hoạ là ở chỗ họ chưa sẵn sàng hành
động và hoàn toàn không biết cần phải làm gì. Tình hình càng trầm trọng
thêm bởi niềm tin mù quáng của giới trí thức rằng họ biết rõ cần phải
“làm gì”, kể cả với hoàn cảnh, chỉ cần tạo điều kiện cho họ là mọi việc
sẽ xong ngay tắp lự. Do đó mà trong khoảng giao thời những năm 1980-1990
trong tâm trạng xã hội, bên
cạnh tâm lý bất mãn chung đối với cuộc sống lại xuất hiện một xu hướng
tự tin rất mạnh mẽ rằng dường như mọi việc đều cực kỳ đơn giản, có thể
chấn chỉnh và sửa chữa một cách dễ dàng. Niềm tin này chính là dấu hiệu
để phân biệt trí thức nửa mùa và cũng là ngọn cờ chiến đấu của họ.
Giới
trí thức chân chính - những người lao động trí óc nghiêm túc, có nhiều
kiến thức và có thói quen suy nghĩ độc lập - hoàn toàn xa lạ với thái độ
ngang tàng như thế đối với các vấn đề phức tạp và quan trọng. Nhận
thức được rằng mọi việc đều phức tạp và thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng là việc khó khăn, giới trí thức cảm thấy lo lắng và lúng túng.
Nhưng trí thức nửa mùa thì, xin nhắc lại, lao vào chiến đấu.
Giai
đoạn “cải tổ” ban đầu đã trở thành chất xúc tác cho các hoạt động chính
trị và cải cách của giới trí thức nửa mùa. Đất nước đang cần những thay
đổi to lớn và nhanh chóng, đặc biệt là về kinh tế. M. Gorbachev, sau
khi nhận thức được rằng những biện pháp thận trọng ban đầu sẽ không đem
lại hiệu quả, buộc phải hướng về giới trí thức nửa mùa, phải dùng những
kẻ đang khát khao những thay đổi như thế, mà cụ thể là những người làm
việc trong lĩnh vực khoa học kinh tế và khoa học xã hội. Tôi không muốn
nói rằng chỉ có những trí thức nửa mùa đóng vai trò cố vấn và “nói leo”,
nhưng phần lớn là những người như thế. Nhưng Gorbachev đã nhanh chóng
bị rát mặt vì những lời cố vấn của họ. Là một người nhanh trí, ông lập
tức nhận ra rằng những lời gợi ý và khuyến nghị của họ thường chỉ có
tính cách nghiệp dư và chẳng mang lại kết quả gì, đằng sau cái vẻ khoa
học và hiểu biết mang tính trang trí của các cố vấn thì tất cả những
khuyến nghị đó chẳng có giá trị gì hết.
Xin
ghi lại một hồi ức về thời đó. Lúc đó Gorbachev rất tin tưởng vào những
khuyến nghị về kinh tế của Viện Kinh tế và Giám đốc Viện là viện sĩ L.
Abalkin - một chuyên gia rất sâu sắc và có uy tín. Một lần Albalkin đến
Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế và cay đắng nói rằng Tổng bí
thư giao cho ông lập tại Viện một nhóm các nhà kinh tế gia tài năng để
tạo thành “túi khôn” cho cải tổ, nhưng sau khi đã lùng khắp cả nước ông
vẫn không tìm được ai: “Tất
cả đều là các cán bộ tuyên truyền và những người tố cáo chủ nghĩa đế
quốc, còn công việc thì chẳng có ai hiểu gì”. Dĩ nhiên đấy là câu chuyện
về giới trí thức nửa mùa trong lĩnh vực kinh tế học.
Gorbachev
đã quay lưng lại với những trí thức bất tài. Kinh nghiệm đã thu thập
được là lý do ông có thái độ coi thường đối với tác phẩm của nhóm G.
Iavlinski và kết quả của nó, tức là kế hoạch “năm trăm ngày”, liên quan
đến giai đoạn cải tổ kinh tế ban đầu. Lúc đó Gorbachev đã nhận thức được
rằng ông đang có quan hệ với những người như thế nào. Nhưng trong lĩnh
vực những cuộc cải cách kinh tế đã chín muồi ông chẳng còn biết đi theo
hướng nào nữa. Ông kiên quyết từ bỏ các cố vấn thận trọng trong các cơ
cấu quản lý, theo ông thì đấy là những kẻ chẳng được tích sự gì. Các trí
thức hóa ra cũng là những người bất lực nốt. Trong nhiệm kỳ thứ hai ông
quyết định dành nhiều công sức hơn cho lĩnh vực đối ngoại, cố gắng dùng
thành tích trong lĩnh vực này nhằm trám lại những lỗ hổng uy tín quá
lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Tâm
trạng của giới trí thức nửa vời - không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà
còn rộng hơn - trong giai đoạn này thì như thế nào? Có thể họ đã ngộ ra
rằng chính sách cải cách không phải là một việc đơn giản? Rằng họ không
có kiến thức về hiện tình của đất nước? Rằng cần phải suy nghĩ một một
cách nghiêm túc và sâu sắc, phải tìm kiếm, biến mình thành những người
nghiên cứu xã hội? Không có gì như thế cả. Giới trí thức nửa mùa đã
không còn là nửa mùa nếu họ có khả năng làm như thế. Tự phân tích không
phải công việc phù hợp với họ. Họ có những phản ứng hoàn toàn khác - đơn
giản, cứng nhắc và rất kiên quyết nữa. Đấy cũng là đặc trưng của hệ
thống tư duy của cả giai tầng này. Trí thức nửa mùa bắt đầu thuyết phục dư luận xã hội rằng tất cả là do lỗi của Gorbachev, rằng những lời cố vấn mà họ đưa ra hoàn toàn chẳng có vai trò gì. Và cả giai tầng này lập tức quay lưng lại với Gorbachev. Sau
đó, cũng lại vẫn theo tinh thần của trí thức nửa mùa; họ lao ngay lên
một nấc thang cấp tiến mới. Từ quan niệm đơn giản về cải cách và sự kiên
quyết của mình, họ đòi: cần phải đập tan “toàn bộ hệ thống”. Chỉ có thế
mới ăn thua. Họ lại cảm thấy mọi thứ cực kỳ đơn giản - chỉ cần kiên
quyết hơn, “phá đến tận gốc” là xong.
Đúng
lúc đó trên sân khấu chính trị xuất hiện thêm một người còn đóng vai
trò xúc tác mạnh mẽ hơn đối với năng lực chính trị và cải cách của giới
trí thức nửa mùa, đấy là B. Yelsin. Sau những lời khẩn cầu về việc “minh
oan về mặt chính trị” bất thành tại Hội nghị Đảng lần thứ XIX (1988),
ông ta, một người đã hoàn toàn li khai với Đảng và hệ thống cũ, cần
những cuộc cải cách theo xu hướng đập tan tất cả ngay lập tức. Tôi nghĩ
đấy là do không chỉ vì ông ta tin rằng hệ thống cũ và Đảng không có khả
năng giải quyết được những vấn đề của đất nước (những vấn đề quả là to
lớn và đã tích tụ trong hàng chục năm hoạt động của hệ thống và Đảng) mà
còn vì sau khi đoạn tuyệt, hệ thống và Đảng đã trở thành kẻ thù nguy
hiểm của ông ta. Vì những tổ chức đó có thể phản kích, muốn cho Yeltsin
sống sót về mặt chính trị thì cả Đảng lẫn hệ thống đều phải bị đập tan.
Ai
có thể soạn thảo và thực hiện một kế hoạch như thế? Chỉ có một lực
lượng duy nhất, đấy là giới trí thức nửa mùa, sau giai đoạn kết hợp ngắn
ngủi với Gorbachev, đã trở thành cấp tiến hơn. Việc phá huỷ toàn bộ đất
nước hoàn toàn phù hợp với trình độ tri thức và quan điểm của họ. Họ
không nghi ngờ gì - cũng như khi cố vấn cho Gorbachev - rằng mọi việc sẽ
kết thúc một cách tốt đẹp nhất. Tầm hiểu biết không cho phép họ nghi
ngờ.
Xin
nhớ lại không khí cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Trí thức
nửa mùa giành được quyền lực một cách cực kỳ nhanh chóng, họ nắm trong
tay nhiều toà báo, nhiều kênh truyền hình, đài phát thanh. Họ - đấy là
nói về Moskva - thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, đưa
một loạt diễn giả bốc lửa và cuối cùng đã làm chủ được công luận. Không
khí thật là phấn khởi và tự tin: nếu chúng ta đập tan được “chế độ toàn
trị” thì trong cái mũ này sẽ có những gì? Chỉ cần thực hiện xong những
cuộc cải cách mang tính khai phóng - trong kinh tế và chính trị - thì sẽ
có gấp đôi, đúng không? Chỉ có sự ngu dốt một cách cùng cực và con
đẻ của nó là sự đơn giản hóa tối đa mới có thể dẫn đến thái độ lạc quan
vô căn cứ như thế mà thôi. Mà đây chính là dấu hiệu cha truyền con nối
của trí thức nửa mùa. Họ tỏ ra hân hoan và đưa ra những lời tiên tri, họ
cố gắng làm cho người khác cũng nhiễm những hy vọng thiếu căn cứ, cứ
như là ngay ngày mai chúng ta sẽ sống như ở Mĩ hay ít nhất thì cũng như
Thụy Điển vậy. Chính họ chứ không phải tầng lớp hay nhóm xã hội nào
khác. Còn đa số dân chúng thì tỏ ra thận trọng, lo lắng.
Dưới trào Yeltsin (đặc biệt là giai đoạn đầu) trí thức nửa mùa phát triển hết cỡ. Có
một quy luật với rất ít ngoại lệ: ý định cải cách càng vĩ đại thì càng
có nhiều người tự tin và ít hiểu biết sẵn sàng thực hiện nó. Công
việc như thế thường làm cho những người nghiêm túc, có suy nghĩ tỏ ra
thận trọng, chứ không hấp dẫn được họ. Thậm chí đơn giản là làm cho họ
sợ nữa.
Đấy
chính là điều đã xảy ra ở nước Nga vào đầu những năm 1990. Cái nhóm
tiến hành công việc cải cách ấy gồm những ai? Cho đến nay, người ta đã
viết hàng núi sách khác nhau đủ loại về nhóm người này. Nhưng dù sao
giữa hàng loạt đặc điểm được nêu ra vẫn có một sự tương đồng. Đấy chính
là những đặc điểm của giới trí thức nửa mùa. Thứ
nhất, tất cả mọi người đều ghi nhận sự tự tin vô tiền khoáng hậu của
nhóm những nhà cải cách-cấp tiến vào sức mạnh và khả năng của mình. Nói chung, dĩ nhiên đấy không phải là một phẩm chất xấu, nhưng khi
chủ nhân của nó bắt tay cải tạo một đất nước cực kỳ to lớn và cực kỳ
phức tạp thì nó đã trở thành chỉ dấu của sự kém hiểu biết, thiếu kinh
nghiệm, thiếu suy nghĩ, đầy nguy hiểm và thật đáng sợ. Thứ hai, chả
lẽ sự tự tin mà vốn hiểu biết lại cực kỳ nghèo nàn không phải là đặc
trưng thường gặp ở giới trí thức nửa mùa hay sao? Thực ra đây là những
thanh niên, những người mới hôm qua còn ngồi trên ghế giảng đường đại
học, kinh nghiệm sống, chưa nói kiến thức chuyên môn, chẳng có bao
nhiêu. Thứ ba, tốc độ và sự quyết liệt của các cuộc cải cách cũng chứng
tỏ rằng đấy là những người kém hiểu biết, nếu hiểu biết họ đã không làm
như thế.
Đúng là trong số những nhà cải cách cấp tiến có những người “không còn trẻ”. Nhưng thật ra không nhiều. Sẽ
lầm to khi cho rằng trí thức nửa vời không tìm cách luồn lách để trở
thành tiến sĩ, giáo sư, viện sĩ, v.v. Tác giả những dòng này, người đã
làm trong lĩnh vực khoa học xã hội trong một thời gian dài, rất thường
được nhìn thấy “những kẻ hay chữ lỏng” tự tin với các học hàm học vị cao
nhất. Mà tất cả những người có dính líu đến lĩnh vực này đều nhìn thấy -
chỗ nào chả có mặt họ.
Trong
quan hệ của mình với đám người này, dĩ nhiên là Yeltsin đã lặp lại đúng
con đường của Gorbachev. Ông đã nhanh chóng nhận ra bản chất của những
nhà cải cách quá tự tin. Ông cũng quay lưng với họ sau khi giải tán
chính phủ Gaidar và thay bằng chính phủ của Trenomyrdyn. Không thể không
nhớ lại làn sóng giận dữ và bất bình nhân sự kiện này trong phe hữu,
nơi tập trung nhóm trí thức nửa mùa quyết liệt nhất. Trong hàng trăm bài
báo, bài bình luận trên truyền hình và những bài phát biểu khác, những
người cánh hữu kêu ầm lên về cái sự gần như là phản bội của Yeltsin đối
với sự nghiệp cải cách. Tác giả những dòng này hoàn toàn không phải là
người ủng hộ và sùng bái Yeltsin, ngược lại là khác. Nhưng tôi không tán
thành những lời kết án được những người cánh hữu coi là chuẩn mực, coi
là có giá trị như một tiền đề lịch sử.
Sau
khi thấy kết quả đầy tai hoạ của “liệu pháp sốc”, Yeltsin còn biết làm
gì ngoài việc quay lưng lại với những nhà cải cách-cấp tiến? Bởi vì khởi
kỳ thủy các nhà cải cách này đã vẽ ra viễn tượng cực kỳ xán lạn. Sau
khi khởi động cuộc cải cách, Gaidar dự đoán rằng sẽ có một giai đoạn suy
giảm sản xuất, giá sẽ tăng không đáng kể - từ 70 đến 200% - còn sau đó
tình hình sẽ nhanh chóng ổn định và kinh tế sẽ phát triển. Kết quả? Tất
cả những gì có thể đổ vỡ đều đã đổ vỡ hết. Giá cả gia tăng không phải
từng đó mà là hàng ngàn lần! Sản xuất lâm vào tình trạng phá sản. Thất
nghiệp cao khủng khiếp. Cả Chiến tranh thế giới I lẫn Chiến tranh thế
giới II đều không đưa được nước Nga vào tình trạng khủng hoảng như những
cuộc cải cách đó! Cần phải đặt câu hỏi: chính khách nào còn tin vào
những kẻ đã gây ra thảm hoạ như thế? Trên thế giới này không có một kẻ
nào điên đến mức như vậy.
Xin
nói thêm vài lời nữa. Tác giả vẫn còn nhớ bài phát biểu đầy tức giận
của Gaidar trên vô tuyến sau khi ông ta bị Yeltsin bãi nhiệm. Lúc đó ông
ta đã cay đắng nhận xét rằng trong tình hình tuyệt vọng người ta mới
cần đến ông, còn khi đã ổn định thì cho ra rìa (tôi nhớ chính xác ý của
bài phát biểu là như thế). Đấy là gì: không muốn nhìn thẳng vào sự thật?
Cố gắng cứu vớt uy tín? Hay là mánh khoé nữa của một chính khách đang
tự cứu mình?
Có thể. Nhưng tôi cho rằng, đặc biệt là dưới ánh sáng của đề tài đang được thảo luận, ở đây có
một cái gì đó hoàn toàn khác và nghiêm túc hơn nhiều. Đây lại là thêm
một biểu hiện nữa của sự vô năng cố hữu của giới trí thức nửa mùa trong
việc tự phân tích với tinh thần phê phán. Sự vô năng là do kiến thức nửa
vời và góc nhìn hạn hẹp. Như ta thấy, Gaidar đã thực sự tin (và
hiện vẫn còn tin) rằng ông ta và những người cùng hội cùng thuyền với
mình đã làm đúng. Còn kết quả không được như ý là do bị người ta cản
trở. Trong đó có cả vị Tổng thống “đã quay lưng” lại với họ. Một sự kiện
đáng ghi nhận: sau đó một loạt các nhà cải cách-cấp tiến đã hứa với
công luận rằng sẽ phân tích sai lầm của chính mình. Cố gắng đầy tai
tiếng trong việc xuất bản một tác phẩm viết về các cuộc cải cách, năm vị
“sư phụ cải cách” nổi danh nhất đứng đầu là Trubais đã nhận được một
khoản nhuận bút cao chưa từng thấy từ một đại gia, cuốn sách có trách
nhiệm rọi “luồng ánh sáng” của tư duy phê phán như đã hứa hẹn vào những
gì họ đã làm.
Nhưng
không thấy “luồng ánh sáng” nào cả. Vì sao? Vì biết bao nhiêu lời chỉ
trích đã được nói lên từ tất cả mọi phía rồi! Dù là chỉ để tách gạo ra
khỏi trấu (theo như những nhà cải cách-cấp tiến quan niệm) thì đáng ra
người ta phải làm cái việc tự phân tích và xem xét những sai lầm từ lâu
rồi. Tất cả các lực lượng chính trị đều sử dụng những biện pháp như thế.
Tác
giả cho rằng mình biết cách giải thích điều bí ẩn này. Vấn đề hoàn toàn
có thể là các nhà cải cách-cấp tiến thực sự không nhận ra rằng họ đã
làm không đúng. Với
kiểu người của họ, với sự hỗn hợp giữa thái độ tự tin và thiếu kiến
thức như thế, đơn giản là họ không thể nhận ra điều đó. Còn khi hứa xem
xét những sai lầm của chính mình là họ cố tình đánh lừa, cố tình tạo ra
hình ảnh một lực lượng chính trị nghiêm túc và có trách nhiệm, có khả
năng tư duy lại quá khứ và như vậy là nhằm nâng cao hiệu quả chính sách
của mình trong tương lai.
Tác giả nhắm đến ba mục tiêu khi viết bài báo này. Thứ nhất,
mục đích chung nhất là góp phần làm sáng tỏ sự kiện là phân bố lực
lượng chính trị-xã hội mà chúng ta đã quen trong hàng chục năm, trong
giai đoạn tiếp nối đầy tai ương giữa những năm 1980-1990 đã và vẫn không
hoàn toàn là cách phân bố mà theo thói quen ta từng tưởng tượng. Tầng
lớp trí thức mà ta tưởng là một tác nhân mạnh mẽ cho những biến đổi xã
hội trên thực tế đã không phải là như thế. Nhân danh nó, giới trí thức nửa mùa, giống trí thức thực sự ở cái mẽ bên ngoài, đã nhảy lên sân khấu.
Trên thực tế, đây là lực lượng cực kỳ thiển cận về mặt chính trị, họ
sẵn sàng ra tay không phải vì hiểu được thực tế mà là do tự đánh giá
mình quá cao.
Nhân chuyện này tôi muốn quay lại với định nghĩa về giới trí thức. Người
ta nói nhiều đến định nghĩa này đúng vào lúc giới trí thức nửa mùa bắt
đầu ngoi lên. Giới trí thức nửa mùa đã đưa cuộc thảo luận đến kết luận
rằng trí thức là người thiết tha với quyền lợi xã hội, chứ không phải
quyền lợi cá nhân hạn hẹp, và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh xã
hội. Cách nhấn giọng như thế là có thể hiểu được. Nó ngầm kêu gọi ủng hộ
giới trí thức nửa mùa vùng lên chống lại hệ thống, tiến hành đập tan hệ
thống. Nhưng xin suy nghĩ thêm về định nghĩa này. “Thiết tha với quyền
lợi xã hội” có phải là người trí thức không? Thế thì Hitler cũng được
coi là người trí thức: hắn chả “thiết tha” đấy ư! Không, “thiết tha”
không thể là tiêu chí được, tiêu chí phải là phẩm chất của cách tiếp cận
với các vấn đề xã hội. Kiểu
người, phương pháp tư duy, tính nghiêm túc, chiều sâu, trách nhiệm
trước các hành động (nó còn là tính đạo đức nữa), kiến thức rộng do lao
động miệt mài mà có. Và có thể không phải là vô tình mà người trí thức,
tầng lớp trí thức lúc đó đã không được giải thích theo cách đó. Tác
giả hoàn toàn không nhớ một trường hợp nào như thế. Nếu có thì giới trí
thức nửa mùa đã lập tức bị đẩy ra khỏi tầng lớp trí thức, một giai tầng
có uy tín của xã hội, ngay từ lúc đó.
Trí thức nửa mùa mang danh trí thức là một hiện tượng cực kỳ nguy hiểm, chứa đầy tai ương.
Khi họ làm những công việc bình thường thì tai hoạ không phải là lớn
(mặc dù dĩ nhiên là vẫn có: kém hiểu biết bao giờ cũng kéo theo hậu quả
tiêu cực). Nhưng khi trí thức nửa mùa bắt tay vào làm việc lớn (đúng hơn
là kiên quyết giành lấy vì thái độ tự tin của mình) thì tai hoạ là
không thể tránh khỏi.
Mục đích thứ hai -
góp phần, trong chừng mực có thể (tác giả không có chút ảo tưởng nào về
khả năng này), để giới trí thức nửa mùa không thể tạo ra được ảnh hưởng
trong lĩnh vực chính trị như trước đây được nữa. Mười năm vừa qua
đã làm giới này rúng động một cách mãnh liệt nhất, nó đã yếu đi nhiều,
đa phần đã “tan đàn sẻ nghé”, chuyển sang những mối bận tâm khác và sử
dụng những khả năng khác. Nhưng không được đánh giá thấp “khả năng quay
về” đỉnh cao quyền lực chính trị của giới trí thức nửa mùa. Dù chỉ là vì
một nhóm, sau khi đã leo lên hồi cuối những năm 1980 - đầu những năm
1990 đang tìm mọi cách bám trụ, đã trở thành xu hướng hữu và cực hữu. Dĩ
nhiên là trí thức nửa mùa đang và sẽ còn cố gắng thôi miên xã hội rằng
họ biết cách giải quyết tất cả mọi vấn đề. Họ đang nói và còn tiếp tục
nói một cách tự tin và xấc xược (hơn nữa, xin nhắc lại, chính họ - đúng
hơn là nhiều người trong số họ - tin vào khả năng và sự đúng đắn của
mình). Chỉ cần một phần dân chúng tin họ thì đấy sẽ là bi kịch không thể
nào sửa chữa được. Nhưng nếu cuối cùng điều đó vẫn xảy ra thì rõ ràng
số kiếp của chúng ta đáng phải như thế. Một xã hội, sau khi đã trải qua
những thử thách khốc liệt nhất, không rút ra được bài học thì đừng hy
vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Mục đích thứ ba - bảo vệ giới trí thức chân chính. Giúp
rửa vết nhục trách nhiệm về những điều đã xảy ra với Tổ quốc ta trong
quá khứ. Tầng lớp này, đáng tiếc còn quá ít, nhất là trên nền của giới
trí thức nửa mùa, đã và tiếp tục làm những công việc quan trọng sống còn
của đất nước. Bất cứ ở đâu, khi đem áp dụng kiến thức, sự nhẫn nại và
cố gắng, họ cũng đều đạt đến nhận thức khách quan, đến nguyên nhân thật
sự của tất cả các tiến trình và hiện tượng. Thật đáng tiếc là trong sự
nghiệp cải cách, giới trí thức chân chính của chúng ta đã gần như bị
giới trí thức nửa mùa say máu đỏ đen và xấc láo đẩy ra ngoài. Rất muốn tin rằng giới trí thức chân chính một lần nữa sẽ quay trở về với vai trò lịch sử của mình.
Nguồn: Tư tưởng tự do thế kỷ XXI, số 10, năm 2002, trang 27.
Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Hà Nội, 2009.
________________
Chú thích:
[1] Kliuchevski V. O. (1841-1911), nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[2] Solovjov S. M (1820-1879), nhà sử học người Nga, Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Moskva từ năm 1871 đến năm 1877.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment