Friday, January 28, 2011

Vua Đường và gián quan



Ngày xuân, giở sử cũ để nghiền ngẫm cuộc đời cũng là một thú vui tao nhã. Vì vậy, xin được trích lược vài câu chuyện từ cuốn Trinh Quán chính yếu để giới thiệu với độc giả. Đây là tác phẩm ghi lại cung cách trị quốc của vua Đường Thái Tôn ở trung quốc - quyển sách cổ được các giới trí thức, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đánh giá cao hơn cả bộ Tam quốc diễn nghĩa.

Tùy Dương Đế là một hôn quân vô đạo, để xã hội lầm than, anh hùng hào kiệt xa lánh triều đình, các quan địa phương đều mưu đồ làm phản, lại còn tạo điều kiện cho thái thú Lý Uyên (phủ Thái Nguyên) nổi lên xưng đế. Các con của Lý Uyên đều là hào kiệt đương thời, dưới trướng có nhiều anh hùng quy tụ, tạo ra những nhóm quyền lực khác nhau. Cuộc chiến đánh đổ nhà Tùy và loạn 18 phan vương vừa chấm dứt thì cuộc chiến giữa các con của Lý Uyên lại đến phen quyết liệt sống còn. Cuối cùng, nhờ quy tụ được nhiều nhân tài và được lòng dân hơn, phe Tần Vương (con thứ ba của Lý Uyên là Lý Thế Dân) đã tiêu diệt được phe thái tử là Lý Kiến Thành. Tần Vương lên ngôi hoàng đế (Đường Thái Tôn), lấy niên hiệu là Trinh Quán nguyên niên (Trinh Quán năm thứ nhất, tức năm 627 Công nguyên).
Việc đầu tiên của vua Đường Thái Tôn là tập hợp hiền tài, mạnh dạn sử dụng và phong chức trọng yếu cho những người tài năng như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối... hoặc những người có công vào sinh ra tử với ông. Điều đặc biệt là ông dám sử dụng cả các tướng tài của cựu triều (nhà Tùy) như Lý Tịnh và các hiền tài của phe thái tử như Ngụy Trưng. Lực lượng hiền tài đa dạng đó đã giúp ông lập ra một khung pháp trị quốc gia, đặc biệt là xây dựng một đội ngũ gián quan làm phản biện đối với hành vi của nhà vua, nhờ thế tạo được nền tảng vững chắc cho đế chế nhà Đường, mở ra thời kỳ hòa bình, hưng thịnh một thời của Trung Hoa kéo dài gần 400 năm sau.


Năm Trinh Quán thứ nhất, một hôm lâm triều, Đường Thái Tôn tâm sự với quần thần rằng: "Ta thuở nhỏ rất yêu thích cung tên, lớn lên chinh chiến luôn sử dụng cung tên giết giặc nên tự nhận là am tường về đặc tính. Gần đây các địa phương gửi cho ta mười mấy súc gỗ làm cung, ta giao cho thợ làm cung xem thì họ chê là chất liệu không tốt, vì gỗ không ngay, vân không thẳng, sức đàn hồi có nhưng đường tên bắn ra sẽ không đi thẳng. Từ đó ta ngộ ra một đạo lý rằng dù ta sử dụng cung tên cả đời, nhưng việc chọn gỗ để tạo ra loại cung tốt vẫn không giỏi như người thợ làm cung chuyên nghiệp. Huống hồ chi việc trị quốc là việc trọng đại, đòi hỏi chuyên môn, là điều rất mới đối với ta, làm sao ta không cần các hiền tài được".
Từ đó, ông đặt ra chế độ các quan đại thần hằng ngày luân phiên đến trực thư phòng của mình, được ngồi ngang với ông đàm đạo mọi việc ngoài xã hội mà ông quan tâm. Chế độ đó không những làm ông có thêm nhiều kiến thức và hiểu được cuộc sống người dân, mà còn buộc các quan phải làm việc không ngừng để nắm bắt được tình hình xã hội kịp thời, từ đó mới kiến nghị được các chính sách phù hợp.
Năm Trinh Quán thứ sáu, tướng Lý Tịnh dẹp xong giặc Hung Nô phương Bắc, uy danh nhà Đường vang dội, các nước xung quanh đều đến triều cống làm thân, ngũ cốc trong nước liên tục được mùa, các quan địa phương đều dâng sớ chúc tụng và xin Đường Thái Tôn tổ chức lễ phong Thiền (tế trời) ở núi Thái Sơn để chứng tỏ sự hùng mạnh của nhà Đường và công cao đức trọng của vua với bá tánh, với trời đất (trước đây Tần Thủy Hoàng sau khi thâu tóm lục quốc đã tổ chức).
Nghi thức được đề xuất vô cùng long trọng và hoang phí. Các quan địa phương phải dâng lễ vật và nhà vua sẽ mời các nước xung quanh đến dự. Nhà vua cùng các đại thần phải từ kinh đô Tràng An đi hàng ngàn dặm đường mới đến được núi Thái Sơn nên chi phí vô cùng lớn. Các quan trong triều đều hồ hởi, chỉ có Ngụy Trưng phản đối. Đường Thái Tôn không vừa lòng bèn hỏi, Ngụy Trưng đáp: "Dù đất nước đã thái bình, uy thế đã vang dội, ngũ cốc được mùa, công đức của bệ hạ rất cao nhưng chưa đủ để tổ chức phong Thiền.
Bởi lẽ người dân vừa trải qua nhiều năm sống trong sự thống trị tàn khốc của cựu trào nhà Tùy và tiếp theo là phải gánh chịu mười năm loạn lạc của chiến tranh. Để tỏ rõ công đức của vua, có thể dùng khoản tiền chi tiêu cho lễ phong Thiền mà xây thêm đường sá, đê điều, chuẩn bị chống lũ lụt và hạn hán. Ngoài ra, nên khuyến khích người dân đến vùng đất mới khẩn hoang, miễn thuế cho người dân, há chăng chẳng phải tốt hơn sao? Hơn nửa đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, nhiều nơi còn nghèo nàn, hoang hóa. Mời sứ thần nước ngoài đến xem những điều yếu kém đó là không hay". Đường Thái Tôn nghe xong cho là hữu lý, bèn dẹp chuyện phong Thiền.
Năm Trinh Quán thứ 12, vua Đường có được hoàng tôn (cháu nội) nên mở yến tiệc mời bá quan văn võ cùng vui. Trong buổi tiệc, ông nói: "Trước năm Trinh Quán, Ngụy Trưng cùng ta chinh chiến gian khổ, giúp ta lập nên nghiệp lớn, công trạng không ai bì được nên được phong làm tả thừa tướng. Sau này, ông dâng sớ can gián ta hàng trăm lần, giúp ta an định quốc gia, làm lợi cho bá tánh, tạo nên nghiệp lớn như ngày nay nên công đó không ai bằng. Ngụy Trưng quả là tấm gương trung thần".
Ngụy Trưng nghe xong tạ ơn và đáp lại: "Do bệ hạ anh minh, luôn dẫn dắt bầy tôi thẳng thắn bày tỏ ý kiến, chứ nếu vua không có ý muốn nghe thì chẳng ai dám nói thật lòng để can gián. Xin bệ hạ cho phép thần làm vị lương thần để chú tâm tận tụy với những gì ích nước lợi dân, khỏi để tâm lo sự thiệt hơn nào khác, nhờ đó lòng thần thanh thản tự tại. Nếu cứ phải làm một trung thần, lúc nào cũng lo không biết có đủ tận trung với vua chưa thì lòng dạ thật không yên".
Năm Trinh Quán thứ 17, Đường Thái Tôn chọn Ngụy Trưng làm thầy cho thái tử. Lúc bấy giờ Ngụy Trưng đã già yếu, dạy dỗ không được bao lâu thì qua đời. Vua thân hành đến bên linh cữu ôm khóc tiếc thương Ngụy Trưng rồi tự thân soạn thảo văn bia và truy phong cho ông chức Tư Không, lại còn cấp bổng lộc cho gia quyến. Mối thâm tình của Đường Thái Tôn với Ngụy Trưng được xây dựng trên lợi ích quốc gia, nhờ ở khả năng đánh giá đúng vai trò hiền tài của người đứng đầu đất nước và sự thẳng thắn tương kính của hai vĩ nhân.
Để quần thần biết được lý do mình quý trọng Ngụy Trưng, vua nói: "Cuộc đời ta luôn dùng ba tấm gương để soi rọi. Gương bằng đồng để xem ta ăn mặc có chỉnh tề không. Gương lịch sử của người xưa để biết được lý do thịnh suy của các triều đại trước, từ đó mà lập ra chính sách trị quốc. Tấm gương thứ ba là lấy gián quan (con người) để biết được hành vi đúng sai, được mất của chính mình. Nay Ngụy Trưng đã qua đời, ta như mất đi tấm gương soi thứ ba thì làm sao không đau xót, thương tiếc được". Nói rồi vua khóc thảm thiết...
  • Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
  • http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-01-25-vua-duong-va-gian-quan

No comments:

Post a Comment